Lịch sử hoạt động USS Gunnel (SS-253)

Mặt trận Đại Tây Dương

Chuyến tuần tra thứ nhất

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi New London, ConnecticutNewport, Rhode Island, Gunnel thực hiện chuyến tuần tra đầu tiên tại vùng biển Châu Âu từ ngày 19 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12, 1942. Nó nằm trong số sáu tàu ngầm được biệt phái cho Lực lượng Hải quân phía Tây dưới quyền Chuẩn đô đốc Henry Kent Hewitt để tham gia vào Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động trinh sát ngoài khơi Fedhala vào ngày 6 tháng 11, hai ngày trước cuộc đổ bộ, và đến ngày đổ bộ 8 tháng 11 đã sử dụng tín hiệu hồng ngoại dẫn đường cho hạm đội áp sát bãi đổ bộ. Quay trở về Rosneath, Scotland vào ngày 7 tháng 12, nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ, nhưng lại gặp trục trặc động cơ diesel H.O.R. trên đường đi và phải hoàn tất 1.000 hải lý (1.900 km) cuối cùng của hành trình bằng động cơ phụ. Nó được đại tu tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine.[1]

Mặt trận Thái Bình Dương

Chuyến tuần tra thứ hai

Chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương, Gunnel khởi hành từ vùng bờ Đông, băng qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng. Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 3 tháng 7, nó hoạt động tại khu vực phía Tây đảo Kyūshū, trong biển Hoa Đông. Nó đánh chìm chiếc tàu chở hàng Kayo Maru (6.300 tấn) vào ngày 15 tháng 6, rồi chỉ bốn ngày sau đó đã tiếp tục đánh chìm chiếc Tokiwa Maru (7.000 tấn).[1]

Chuyến tuần tra thứ ba và thứ tư

Sau khi được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island tại Mare Island, California, Gunnel thực hiện chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 17 tháng 11, 1943 đến ngày 7 tháng 1, 1944. Tại vùng biển ngoài khơi đảo Honshū, nó đã đánh chìm chiếc tàu buôn Hiyoshi Maru (4.046 tấn) vào ngày 4 tháng 12, rồi kết thúc chuyến đi tại đảo Midway. Chiếc tàu ngầm tiếp tục chuyến tuần tra thứ tư từ ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng 4 tại các vùng biển Đông, SuluCelebes, nhưng không đánh chìm mục tiêu nào. Nó quay về căn cứ tại Fremantle, Australia để tái trang bị.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm và thứ sáu

Trong các chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày 3 tháng 5 đến ngày 4 tháng 7, và từ ngày 29 tháng 7đến ngày 22 tháng 9, Gunnel hoạt động tại các lối tiếp cận phía Nam của eo biển Sunda và tại khu vực biển Sulu-Manila nhưng vẫn không tìm thấy mục tiêu phù hợp.[1]

Chuyến tuần tra thứ bảy

Trong chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày 21 tháng 10 đến ngày 28 tháng 12 tại các khu vực biển Đông và biển Sulu, Gunnel đã lần lượt đánh chìm tàu phóng lôi Sagi (600 tấn) trong khoảng từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 11;[14] tàu buôn Shunten Maru (5.600 tấn); và tàu phóng lôi Hiyodori (600 tấn) trong khoảng từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 11.[15] Cùng trong chuyến tuần tra này, tại Palawan vào các ngày 12 tháng 12, chiếc tàu ngầm đã giúp di tản 11 phi công Hải quân vốn được quân du kích Philippines cứu sống và cưu mang trong khoảng hai tháng.[1][16]

Chuyến tuần tra thứ tám

Gunnel tiến hành chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng, từ ngày 13 tháng 6 đến ngày 24 tháng 7 tại khu vực eo biển Bungo. Nó đã tấn công một tàu ngầm đối phương không được hộ tống vào ngày 9 tháng 7, nhưng khoảng cách xa và tốc độ di chuyển nhanh của đối phương đã khiến các quả ngư lôi không trúng đích. Sau đó con tàu chuyển sang hoạt động tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho các chiến dịch ném bom chiến lược của máy bay ném bom B-29 Superfortress xuống các đảo chính quốc Nhật Bản.[1]

Kết thúc chuyến tuần tra, Gunnel đang được tái trang bị tại Trân Châu Cảng khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó được lệnh quay trở về vùng bờ Đông Hoa Kỳ, đi đến New London, Connecticut, nơi con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 18 tháng 5, 1946,[1][12][13] và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 9, 1958,[1][12][13] và con tàu bị bán cho hãng Luria Brothers tại Philadelphia, Pennsylvania[12] để tháo dỡ vào tháng 8, 1959.[1][13]